Tiềm năng tài nguyên khoáng sản tỉnh Bình Định
Trên địa bàn tỉnh Bình Định có nhiều loại khoáng sản quý hiếm như đá granite ước tính khoảng 700 triệu m3 (trong đó có các loại đá cao cấp như: Granosinite màu đỏ, Biotite hạt thể màu vàng... với trữ lượng khoảng 500 triệu m3 tập trung nhiều ở An Nhơn, Tuy Phước, Quy Nhơn…); quặng sa khoáng Titan trữ lượng khoảng 2,5 triệu tấn Ilmenite nằm dọc theo bờ biển (tập trung ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ và xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn). Các mỏ vàng tập trung phân bố ở các khu vực Vĩnh Kim, Vạn Hội, Kim Sơn, Tiên Thuận, trong đó mỏ Tiên Thuận được đánh giá là có tiềm năng lớn nhất; mỏ Bauxit Kon Hà Nừng thuộc trên địa bàn 02 tỉnh Bình Định và Gia Lai. Ngoài ra, còn có các mỏ cao lanh, đất sét (tập trung ở các huyện Phù Cát, Tuy Phước, Tây Sơn) trữ lượng đã thăm dò khoảng 24 triệu m3; đủ để phục vụ cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (gạch ngói, gạch ceramic...) trên địa bàn tỉnh.
Bình Định có 5 điểm nước suối khoáng nóng, trong đó điểm nước khoáng Phước Mỹ có chất lượng nước cao để sản xuất nước giải khát; điểm nước nóng Hội Vân đã được khai thác sử dụng từ năm 1976, được đánh giá các tiêu chuẩn đặc hiệu chữa bệnh và có thể dùng để phát triển điện địa nhiệt…
Do vị trí và đặc điểm cấu trúc địa chất của lãnh thổ Bình Định mà điều kiện sinh thành và phân bố khoáng sản có những nét riêng biệt. Trên lãnh thổ Bình Định không thể phát hiện loại khoáng sản rắn làm nhiên liệu, hoặc phát hiện các tích tụ đá giàu chất vôi bởi lẽ các đá tạo nên lãnh thổ này đã hình thành vào những niên đại mà điều kiện để thành tạo loại khoáng sản này chưa có. Những khoáng sản đã phát hiện được ở Bình Định chủ yếu là loại khoáng sản có nguồn gốc nội sinh và một số khác có nguồn gốc phong hóa và tái trầm tích.
Phần mô tả đặc điểm khoáng sản sẽ được trình bày theo thứ tự từ các mỏ kim loại, đến không kim loại và nước khoáng.
- Khoáng sản kim loại: Trên lãnh thổ Bình Định có nhiều dấu hiệu và biểu hiện khoáng hóa kim loại, tuy nhiên công tác tìm kiếm địa chất vẫn chưa phát hiện được các mỏ có triển vọng.
* Ilmenite:
Tại Bình Định, quặng titan mới phát hiện và tìm kiếm thăm dò loại sa khoáng ven biển. Chủ yếu là khoáng vật Ilmenit trong các tạo thành cát ven biển. Dưới đây là đặc điểm các sa khoáng titan đã biết.
- Mỏ Titan Đề Gi:
Mỏ titan sa khoáng Đề Gi nằm trong bãi cát biển nằm trong 3 xã Cát Khánh, Cát Thanh và Cát Hải - huyện Phù cát với chiều dài gần 8 km. Mỏ Đề Gi nằm trong giới hạn sau (14°02’00" - 14°07’00" Bắc; 109°12’06" - 109°13’00" Đông). Tổng trữ lượng tại khu này đã tính được là 1.622 ngàn tấn.
Về mặt địa chất mỏ Đề Gi cấu tạo từ các trầm tích đệ Tứ và đá xâm nhập thuộc nhiều phức hệ khác nhau như: Trầm tích nguồn gốc sông suối gồm có cát, sét, cát sét màu vàng phân bố ở phía Tây mỏ có chiều dày 10-15 m; trầm tích nguồn gốc sông biển gồm có cát, bột sét màu vàng phân bố ở vùng gần biển; trầm tích nguồn gốc biển được tái tạo do gió thành dải hẹp. Thực chất nó là các bãi cát ven biển thành phần chính là cát màu vàng.
Trong vùng nằm lân cận mỏ sa khoáng titan có các đá macma thuộc các phức hệ sau: Đá placiogranitogơnai và granitogơnai thuộc phức hệ Chu Lai - Ba Tơ; Granit biotit, granodiorit thuộc phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn; Granit biotit, granodiorit thuộc phức hệ Đèo Cả.
- Mỏ sa khoáng titan Xương Lý:
Sa khoáng titan Xương Lý nằm ở bãi cát ven biển xã Nhơn Lý, bán đảo Phương Mai, cách Quy Nhơn 20 km về phía Đông Bắc. Đến Xương Lý bằng đường biển. Mỏ Xương Lý có chiều dài 870 m, rộng 40m, chiều dày lớp quặng từ 1-4 m, trung bình 1,8 m. Sa khoáng lộ ngay trên mặt, không có lớp phủ.
Trữ lượng Ilmenite đã tính là 18.965 tấn, trữ lượng Zircon là 725 tấn, Rutin là 341 tấn. Sa khoáng titan Xương Lý tuy có trữ lượng nhỏ, nhưng hàm lượng khoáng vật có ích cao. Khai thác với qui mô nhỏ có nhiều thuận lợi.
- Sa khoáng titan Hưng Lương:
Sa khoáng titan Hưng Lương nằm cách Xương Lý 2 km về phía Bắc thuộc xã Nhơn Lý (Quy Nhơn ). Mỏ sa khoáng Hưng Lương có chiều dài 1.000 m, rộng 500m. Lớp quặng có chiều dày 0,5-4 m trung bình 1,48 m, chiều dày lớp cát phủ 0-3 m.
Trữ lượng Ilmenite toàn khu Hưng Lương là 21.300 tấn, trong đó loại trong cân đối là 2.700 tấn; trữ lượng Zircon là 889 tấn và Rutin là 445 tấn.
- Sa khoáng titan Trung Lương:
Sa khoáng titan Trung Lương thuộc địa phận thôn Trung Lương xã Cát Chánh, huyện Phù Cát. Mỏ sa khoáng titan Trung Lương có chiều dài xấp xỉ 1.700 m, rộng 30-170 m, lớp quặng dày 0,5-5 m, trung bình 1,53 m, lớp phủ 0-4 m.
Trữ lượng Ilmenite: 8.875 tấn; Zircon: 394 tấn; Rutin: 117 tấn.
- Sa khoáng titan Mỹ Thọ:
Sa khoáng titan Mỹ Thọ thuộc xã Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ - trên chiều dài hơn chục km từ Vĩnh Hội đến Chánh Giáo.
* Vàng:
Biểu hiện vàng gặp nhiều nơi, nhưng hiện nay ở Bình Định chỉ có vàng Tiên Thuận là triển vọng công nghiệp. Các điểm vàng ở Vũng Chua (Quy Nhơn), Vĩnh Thạnh, Kim Sơn chỉ là những dấu hiệu, hiện chưa phát hiện được các tích tụ có ý nghĩa.
- Mỏ vàng Tiên Thuận:
Mỏ vàng Tiên Thuận thuộc huyện Tây Sơn. Đến Tiên Thuận bằng đường ô tô: từ Quy Nhơn đến Đồng Phó (theo đường 19), rẽ theo đường đi Vĩnh Thạnh 3 km, sau đó qua sông Kôn đi tiếp 3 km sẽ đến mỏ Tiên Thuận.
Tại Tiên Thuận đã phát hiện 6 thân quặng vàng. Các mạch thạch anh sunfua có chứa vàng có chiều dài 400-1.000 m, độ dày 0,2-2,6 m, hàm lượng vàng 0,2-47,3 g/tấn, hàm lượng bạc 1-114 g/tấn. Trữ lượng này được tính toán với chỉ tiêu: Hàm lượng vàng mẫu biên là 1 g/tấn và hàm lượng vàng tối thiểu của khối là 3 g/tấn, độ dày tối thiểu là 0,5m.
Với trữ lượng vàng bạc đã tính, Tiên Thuận là một mỏ vàng có triển vọng công nghiệp. Ngoài vàng, bạc, khi khai thác còn có thể thu hồi một lượng quặng chì.
Ngoài 6 thân quặng vàng đã biết, tại Tiên Thuận còn có 135 điểm quặng hóa chưa được điều tra chi tiết. Đó là cơ sở để mở rộng quy mô của mỏ Tiên Thuận.
- Các biểu hiện khoáng hóa vàng vùng Hoài Ân:
Điểm khoáng hóa vàng La Chiêm và Hội Nhơn nằm trong đứt gãy phương á kinh tuyến và Tây Bắc - Đông Nam. Mạch thạch anh sunfua vàng ở đây mới phát hiện sơ bộ cho thấy có hàm lượng vàng từ 2-7,2 g/tấn.
Điểm vàng Kim Sơn trước đây Pháp đã có công trình khai thác. Vàng gốc Kim Sơn thuộc loại mạch nhỏ trong đứt gãy á vĩ tuyến, các mạch nhỏ này còn sót lại ven rìa moong khai thác, hàm lượng vàng 0,1-0,3 g/tấn. Vàng sa khoáng thành tạo trong các trầm tích đệ tứ phân bố dọc sông Kim Sơn với hàm lượng thấp lại bị lớp đất phủ rất dày, nên không có giá trị.
- Sa khoáng không kim loại: Sa khoáng không kim loại trong lãnh thổ Bình Định gồm có Caolin, sét, cát, đá granite.
* Caolin:
- Caolin Long Mỹ:
Mỏ Caolin Long Mỹ nằm trong địa giới của xã Phước An, thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước. Caolin Long Mỹ là sản phẩm phong hóa từ granit được tái trầm tích trong các thung lũng. Hình dạng của lớp caolin phụ thuộc hình dạng của thung lũng. Ranh giới giữa sét và caolin chưa khoanh được rõ ràng.
- Caolin Phù Cát:
Mỏ caolin nằm trong địa phận xã Cát Trinh, Cát Hiệp, huyện Phù Cát và xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn. Mỏ có 8 thân quặng nằm rải rác ở 4 khu vực khác nhau là Phú Kim, Hội Vân, Thuận Nhất và Phong An.
* Sét gạch ngói:
Sét Tây Sơn có diện phân bố nằm trong 3 xã Bình Tường, Bình Phú và Bình Nghi, dọc quốc lộ 19; có thể chia thành 2 dải sét khác nhau:
- Dải 1: Nằm kéo dài theo hướng Đông-Tây từ Bình Nghi đến Tây Phú, với chiều dài khoảng 7km, rộng 300m, dày trung bình 3m, trữ lượng 2,7 triệu m3.
- Dải 2: Phân bố ở vùng Bình Tường chiều dài 3 km, rộng 200m, dày 3m, trữ lượng 1,8 triệu m3.
Sét có màu xám, nâu nhạt. Thành phần hóa học của sét như sau:
SiO2: 47,1-59,8 %; Al2O3: 17,8-23,5 %; Fe2O3: 6,5-10,8 %;
CaO: 1,1-2,5 %; K2O: 0,5-1,9 %; MKN: 7,6-10,8 %.
Nói chung sét có chất lượng tốt.
* Cát thủy tinh:
Bình Định là một tỉnh duyên hải có suốt chiều dài từ Bắc tới Nam là bờ biển Đông, suốt theo chiều dài này là những bãi cát có nguồn gốc biển hoặc sông biển hỗn hợp có cát ở đáy phần lớn là nguyên liệu phong hóa từ cát đá có nguồn gốc axít nên giàu silicat. Cát rất trắng, sạch, đều hạt. Loại cát ven biển này rất phù hợp cho việc khai thác chế biến làm thuỷ tinh.
Riêng đối với cát thủy tinh thì các điểm cát ở Hoài Châu, Tam Quan là có khả năng dùng làm cát thủy tinh dân dụng chất lượng thấp.
Điểm cát Hoài Châu cách thị trấn Tam Quan 3 km về phía Tây Nam, chúng phân bố trong phạm vi 2 xã Hoài Châu và Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn. Tại Hoài Châu có 2 khu vực chứa cát là Bình Đê, trữ lượng 0,5 triệu m3 và Đập Cấm khoảng 0,4 triệu m3.
* Cát xây dựng:
Đối với Bình Định, cát xây dựng tương đối phong phú và dễ khai thác. Chúng phân bố hầu hết khắp các sông suối trong vùng như sông La Tinh, sông Lại Giang, Sông Kôn, Sông Hà Thanh,… nên việc nghiên cứu tìm kiếm cát xây dựng không phải là nhiệm vụ và yêu cầu cần thiết.
* Đá Granit:
Đến nay trên lãnh thổ Bình Định đã phát hiện và ghi nhận có 55 khu vực có phân bố đá granit đáp ứng yêu cầu sử dụng làm đá ốp lát là các loại đá đạt các yêu cầu về độ nguyên khối, rắn chắc, ổn định về thành phần và kiến trúc hạt, màu sắc, đáp ứng cho nhu cầu trang lát. Căn cứ vào màu sắc, đá ốp lát Bình Định có thể chia làm 4 nhóm:
- Nhóm granit màu hồng đỏ: Là loại đá granit, granoxienit hạt trung đến lớn dạng pocfia, giàu ban tinh fenspat màu đỏ, thuộc phức hệ Vân Canh. Loại này tập trung ở vùng Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và Vân Canh. Màu của đá từ xám hồng, hồng nhạt, đỏ cánh sen, hồng thắm và đỏ. Tính phân đới của các gam màu thường theo dạng giảm dần từ trung tâm ra ven rìa của khối macma.
+ Đá màu đỏ khu vực An Nhơn:
Đá tập trung trong địa phận 2 xã Nhơn Tân và Nhơn Thọ. Các thể đá granit nằm cách biệt nhau từ vài trăm mét đến 1 km, gồm các khối Móng Tượng, Rét Yên, núi Ông Dâu, núi Dung, núi Thơm.
+ Đá granit màu đỏ khu vực Vân Canh:
Đá granit màu đỏ khu vực Vân Canh nằm trong địa phận xã Canh Vinh, thuộc khu vực núi Dâu, Dác Đào, Cưỡi Ngựa. Với chiều kéo dài khoảng 4 km, bề ngang thay đổi 200 - 700m.
Đá Vân Canh có màu sắc gần tương tự như An Nhơn, diện lộ đá gốc nhiều hơn An Nhơn. Đặc điểm của khu vực Vân Canh là đá tảng lăn ít và nhiều loại có kích thước trên 3m chỉ chiếm vài chục %. Điều này chứng tỏ ở Vân Canh độ liền khối của đá kém.
- Nhóm granit sáng màu và màu vàng:
Nhóm đá này gồm các xâm nhập có qui mô lớn, hạt từ lớn đến thô, ít khoáng vật màu, cấu tạo khối, kiến trúc dạng pocfia. Chúng thuộc các đá của pha muộn giữa phun trào Đèo Cả và pha giữa của phức hệ Vân Canh. Đá lộ ra ở nút Mơ, Cát Khánh, Cát Chánh, Hòn Ách, Hòn Chà, Kỳ Sơn. v.v...
- Nhóm đá granit màu sặc sỡ: Đá màu sặc sỡ thường là đá granitoit hạt thô thuộc phức hệ Vân Canh, Đèo Cả, Quế Sơn. Chúng được phân bố ở Tây Sơn, Hoài Nhơn; ở Nước Trong Hạ, thuộc An Lão; Chánh Thành, Cát Nhơn - Phù Cát; Sao Cô, Sa Kinh - Tây Sơn; Núi An - Vân Canh,…
Đá có màu xám đốm trắng, đốm hồng, đen với ban tinh fenspat lớn màu trắng, hồng, đỏ tươi nổi trên nền hạt trung màu xám làm cho đá có màu sắc đẹp.
Độ nứt nẻ loại đá này không đáng kể. Đá sặc sỡ, có cường độ kháng nén 1.150 -1.805kg/cm2; thể trọng 2,68; độ hổng 0,7 - 1,4. Loại đá này hiện tại thị trường mua còn ít.
- Nhóm đá màu đen, xanh đen:
Đá màu đen gặp ở nhiều nơi như Mỹ Đức, Mỹ Trinh, Xuân Cảnh, Gia Lộc, Cát Sơn, Đồng Sim và nhiều nơi khác.
Đá có màu đen thường là loại biến chất cổ, có nơi chuyển thành amfibolit.
Đá có cấu tạo dạng gơnai; đôi khi trong metagabro cũng có gặp các đá mafic hoặc trung tính chưa biến chất như gabro, gabrodiorit, diorit.
Điển hình cho loại đá này có khối Mỹ Đức. Khối Mỹ Đức nằm về phía Đông Bắc huyện Phù Mỹ 15 km, khối đá có diện lộ 0,3 km2. Khối đá tiếp xúc kiến tạo ở phía Nam và Đông Nam. Dọc theo đứt gãy đá bị nứt vỡ mạnh, đôi chỗ dạng phiến mỏng.
- Trữ lượng đá Granit (ôplat): Dự tính tại tỉnh Bình Định có 474 triệu m3 đá đỏ nguyên khai trong đó 148 triệu m3 cấp C2, cụ thể như sau:
Khu vực núi Dung : 362 triệu m3 cấp C2-P1. Trong đó 75 triệu m3 cấp C2.
Khu vực núi Ông Dâu: 11 triệu m3 cấp C2.
Khu vực Canh Vinh: 101 triệu m3 cấp C2-P1. Trong đó: 62 triệu m3 cấp C2.
Nếu lấy tỷ lệ thu hồi đến 30 % thì:
Trữ lượng đá đỏ là: 142 triệu m3, trong đó cấp C2 là 44 triệu m3; cấp P1 là 48triệu m3.
Đá đen dự báo khoảng 108 triệu m3 ở 4 khu có qui mô lớn, riêng khu Mỹ Đức có 16 triệu m3 cấp C1.
Kết luận: Lãnh thổ Bình Định khá phong phú về nguyên liệu đá ốp lát và cũng rất đa dạng về chủng loại và màu sắc đá. Trữ lượng đá ốp lát đã điều tra và dự báo thỏa mãn cho nhu cầu trước mắt và lâu dài.
* Mica fenspat Nghĩa Điền - Hoài Ân:
Dọc đường ô tô Kim Sơn - Nghĩa Điền có gặp các mạch pecmatit có chứa mica fenspat nằm trong đá biến chất hệ tầng Kannak. Tại Nghĩa Điền có dấu hiệu khai thác của người Pháp nhưng không có tài liệu. Điểm mica fenspat này chưa được điều tra nghiên cứu.
* Nước khoáng:
Bình Định là địa phương có nhiều nguồn nước khoáng. Hiện nay đã biết có 4 mạch nước khoáng là Hội Vân, Cát Hiệp - Phù Cát; Cát Thắng và Hố Trẩy, Cát Thành, Phù Cát; Bình Quang, Vĩnh Thạnh.
Các điểm nước khoáng trong tỉnh Bình Định đều là mạch nước vi lượng có silic, axit Metasilicic (H2SO3) và Bicabonat với hàm lượng, nhiệt độ, độ khoáng hóa (M) tuy có khác nhau giữa các mạch nhưng đều có thành phần đặc hiệu chữa bệnh và nhiều thành phần vi lượng.
Nước khoáng Hội Vân đã được Sở Y tế Bình Định cho phép sử dụng. Từ 1976 đã lập Viện điều dưỡng nước khoáng Hội Vân để chữa một số bệnh như rối loạn tiêu hóa, viêm đại tràng,… Nước khoáng Hội Vân cũng đã được nghiên cứu để sử dụng nguồn địa nhiệt và gần đây đã được một công ty nước ngoài đầu tư để sản xuất nước khoáng đóng chai.
So với 4 nguồn nước khoáng nóng đã biết tại Bình Định thì Hội Vân là nơi có điều kiện giao thông thuận lợi nhất. Vì vậy đã được nghiên cứu sử dụng sớm hơn. Về thành phần vi lượng, thì các nguồn nước khác cũng không khác nhau nhiều, tuy nhiệt độ có khác nhau.
Tóm lại:
- Theo tài liệu địa chất và kết quả tìm kiếm khoáng sản đã biết đến nay, thì Bình Định là tỉnh không giàu khoáng sản. Các mỏ đã biết đều có nguồn gốc nội sinh, biến chất và phong hóa; đặc điểm này phù hợp với điều kiện cấu trúc địa chất của vùng.
- Các mỏ đã biết và có triển vọng công nghiệp gồm: Titan, vàng, caolin, đá ốp lát và nước khoáng.
- Titan là khoáng sản có qui mô trung bình; mỏ Đề Gi đã được thăm dò sơ bộ, trữ lượng này có thể làm căn cứ để thiết kế khai thác. Các điểm mỏ khác mới tìm kiếm sơ bộ, cần phải có công tác tìm kiếm tiếp theo (như Mỹ Thọ).
- Vàng Tiên Thuận có qui mô mỏ nhỏ, mạch riêng lẻ, có thể tiếp tục tìm kiếm để đầu tư khai thác qui mô nhỏ.
- Đá ốp lát phong phú và đa dạng, nhưng cũng ở giai đoạn tìm kiếm, muốn thiết kế khai thác qui mô lớn, phải đầu tư thăm dò.
- Caolin có qui mô trung bình, chất lượng thuộc loại trung bình cần phải nghiên cứu xử lý và tiếp tục thăm dò bổ sung mới đáp ứng yêu cầu khai thác.